Nếu bạn không là ai, không có gì ở Việt Nam, Canada sẽ cho bạn một cuộc sống tạm đủ, nhưng nếu bạn đã có một cương vị, một cuộc sống tốt, hãy cân nhắc cho thật kỹ.
Mọi thứ Việt kiều có, người ở Việt Nam còn có nhiều hơn thế. Giờ Việt kiều chỉ đơn giản là người Việt Nam sinh sống tại nước ngoài.
- Bạn muốn khởi nghiệp và sau đó làm giàu? Làm điều đó ở Việt Nam dễ hơn.
- Bạn muốn có một vị trí, chỗ đứng trong xã hội và nhận được sự kính trọng? Làm điều đó ở Việt Nam dễ hơn.
Bạn thích cuộc sống sôi động hàng ngày, gần gũi và gắn kết gia đình và người thân? Điều đó bạn tìm thấy ở Việt Nam, không phải ở đây. Những điều này có thể bạn đã đọc hay nghe qua, và không tin lắm.
Nhưng đó chính là sự thật, và nhiều người trong cuộc đã dũng cảm nói lên sự thật ấy.
Gần 20 năm lăn lộn học tập và làm việc tại Mỹ và Canada cho tôi một cái nhìn công bằng về cuộc sống người Việt tại các quốc gia này, và có sự so sánh với Việt Nam.
Trong những bài viết trước, Mỹ, Úc hay Canada đều chẳng phải thiên đường ngay với dân bản xứ, thì điều đó càng xa vời đối với Việt kiều.
Việt kiều tại Canada
Những năm 90 của thế kỷ trước, khi đất nước còn nghèo, một cục xà bông thơm còn là món quà có ý nghĩa, Việt kiều ở các nước này hay châu Âu, khi về quê nhà mang theo hình ảnh bảnh bao, vật chất no đủ, thì từ 10 năm trở lại đây, hình ảnh ấy không còn quyến rũ nữa, khi Việt Nam đã phát triển hơn nhiều.
Mọi thứ Việt kiều có, người ở Việt Nam còn có nhiều hơn thế. Giờ Việt kiều chỉ đơn giản là người Việt Nam sinh sống tại nước ngoài.
Nếu so với các sắc dân châu Á khác tại Canada, cộng đồng người Việt với số dân 300.000 người chỉ thua cộng đồng Trung Quốc, Ấn Độ hay Philippines.
Khi mới tới, để mưu sinh, người Việt bắt đầu bằng các công việc của nghề làm móng (nail), làm công nhân trong các hãng xưởng, và muộn hơn ít năm thì làm các công việc dịch vụ trong cộng đồng người Việt như môi giới nhà đất, bán bảo hiểm hay mở quán ăn Việt Nam.
Người châu Á tại Canada. Ảnh: TheTyee
Mỗi sắc dân châu Á nhập cư lại chiếm lĩnh đặc trưng ngành nghề riêng và nhóm khác rất khó chen chân, như người Hoa thì buôn bán, mở hàng ăn, siêu thị thực phẩm, người Ấn Độ thì làm chủ các trạm xăng và cửa hàng tiện lợi, còn người Việt theo đuổi nghề làm móng, người Thái làm massage, người Philippines làm giúp việc và chăm sóc người già, là những nghề nghiệp ở thang bậc thấp trong xã hội, cho dù chúng ta vẫn khẳng định là bất cứ nghề nào kiêm sống chân chính cũng đáng quý.
Thu nhập trung bình của người Việt ở khoảng 25.000 tới 40.000 CAD/năm sau thuế trong các nghề này.
Mức thu nhập nếu so với Việt Nam thì có vẻ cao, nhưng chỉ ở dạng trung bình thấp ở Canada, và tằn tiện thì cũng đủ chi phí cho cả gia đình tiền nhà (thuê hoặc mua trả góp), thuế đất, tiền xe ô tô, bảo hiểm, ăn uống, điện nước, và các loại hóa đơn khác.
Sau chừng 10-15 năm tiết kiệm, có thể mua được căn nhà nhỏ. Khi đã mua nhà, xe trả góp, hay tiêu bằng thẻ tín dụng, tất cả vướng ngay vào vòng quay của bẫy thu nhập trung bình và áp lực kiếm tiền hàng tháng để trả nợ hiện diện từng giờ từng phút mỗi ngày.
Những dịp đi ăn uống bên ngoài, chỉ một vài lần mỗi tháng, với người Việt Nam thì đơn giản, nhưng với Việt kiều thì phải chắt bóp nhiều khoản khác. Mua đồ hiệu phải cực kỳ cân nhắc và đợi đến khi hàng giảm giá.
Người Việt chi tiêu tằn tiện, vun vén cho gia đình và con cái, hy vọng thế hệ con cái được hưởng nền giáo dục ở đây có thể mang lại nghề nghiệp tốt hơn trong tương lai như luật sư, kỹ sư, bác sĩ và một vị trí được tôn trọng hơn trong xã hội như nhân viên nhà nước.
Nhưng đời không như là mơ. Ba mươi năm sau, thế hệ Việt kiều mới dù có được hưởng nền giáo dục tốt hơn và có nhiều bằng cấp hơn, những ngành nghề chính của người Việt thế hệ sau này vẫn vậy, đó là làm móng, công nhân hãng xưởng, và dịch vụ cho người Việt.
Người Việt thế hệ trước luôn mong thế hệ sau trở thành luật sư, kỹ sư, bác sĩ…
Không đủ can đảm hay năng lực theo đuổi tới cùng giấc mơ học thức, khó tìm việc làm, sự kỳ thị thiểu số và cạnh tranh đáng kể từ sắc dân da trắng là những lực cản khiến cho thế hệ Việt kiều mới lại quay về những nền tảng đã cũ mà cha mẹ họ gây dựng nên.
Với những người khác, tìm được một công việc và giữ được công việc cũng đã là một giấc mơ đáng kể rồi. Canada công khai những người thu nhập trên 100.000 CAD/năm trên Sunshine List như ở Ontario, nên một số rất ít người Việt có thu nhập cao thì không khoe, vì thuế rất cao, những người khoe thì lại là giả.
Rất rất ít những cái tên người Việt nổi lên ở Canada trong một vị trí đại loại như quan chức, một nhà khoa học, một nghệ sĩ tài năng hay chủ một doanh nghiệp lớn.
Người Việt ở Canada không có nhiều tiếng nói, không hẳn chỉ vì thiểu số, cũng không đủ tiềm lực để tạo nên một dấu ấn cộng đồng như Little Saigon ở quận Cam, California hay một trung tâm Eden ở Virginia.
Đằng sau những giấc mơ
Phải có một thần kinh thép để sống tại một quốc gia chậm chạp, kiên nhẫn, và bảo thủ như Canada này. Cho dù chính phủ Canada cố gắng xây dựng một xã hội đa văn hóa, sự kỳ thị (tiếng Anh và người châu Á) và tính cách lạnh lẽo của người Canada bản xứ, cùng với mặc cảm thiểu số khiến cho một số sắc dân, trở nên co cụm trong cộng đồng của riêng họ như một cách phòng vệ tự nhiên.
Người Việt cũng vậy, hầu hết đều sống rất hiền lành, an phận, và cố gắng tránh xa mọi rắc rối với luật pháp. Các mâu thuẫn trong cộng đồng Việt rất nhỏ, không khi nào có bạo lực nhưng cũng rất khó giải quyết.
Ví dụ là sự kỳ thị Nam Bắc, kỳ thị của những người Việt cùng hãng hay cùng tiệm nail chỉ vì làm thêm giờ, hay giành khách.
Những hội nhóm sinh hoạt chung thì thường dành cho người cao tuổi và dưới màu sắc tôn giáo tồn tại được lâu hơn cả, còn các quan hệ khác thường là hời hợt.
Gia đình là hạt nhân quan trọng nhất, và thành lũy cuối cùng để bảo vệ và che chở người Việt, nhưng cũng rất mỏng manh dễ vỡ dưới tác động của cuộc sống sòng phẳng đến tàn nhẫn, ít cảm xúc nơi này.
Người già Việt kiều hay nói “cái xứ này nó không có tình người”, còn người trẻ thì không quan tâm bởi rào cản ngôn ngữ với tiếng mẹ đẻ và bởi họ được dạy rằng “đời ai người nấy lo”.
Những mâu thuẫn trong gia đình và giữa các thế hệ cũng rất khó giải quyết bởi không có những can thiệp, chia sẻ, an ủi hay tư vấn từ họ hàng bà con, hàng xóm, hay hội đoàn, cái mà tưởng như rất phiền phức tại Việt Bam, nhưng lại hữu dụng mà chẳng có ở đây.
Mùa đông thì lạnh ngắt, ngày thì dài lê thê. Không khí gia đình bà con ấm cúng, chào hỏi thân quen là những giấc mơ bình dị mà hiếm hoi có được.
Người già Việt kiều hay nói “cái xứ này nó không có tình người”, còn người trẻ thì không quan tâm bởi rào cản ngôn ngữ với tiếng mẹ đẻ và bởi họ được dạy rằng “đời ai người nấy lo”.
Văn hóa Việt phai mờ ở phần lớn người Việt trẻ ở thế hệ thứ hai, không được duy trì tốt như người Nhật, Hàn hay Trung Hoa. Việt kiều nữ, với tính cách nhỏ nhẹ, nấu ăn ngon, chăm sóc gia đình, hơn hẳn gái Tây nên nhiều trai theo đuổi và dễ chọn bạn đời, ngay cả khi họ đã từng đổ vỡ.
Việt kiều nam không có vị thế như ở Việt Nam, một phần vì văn hóa và bình đẳng giới tại đây, một phần nữa là rất khó tìm vợ.
Gái Tây không thích trai Việt, điều đó chắc chắn rồi. Gái Hàn, Nhật thì quá cao, với không tới.
Hy vọng vào gái Việt Nam, hay Trung Hoa thì họ cũng luôn được trai Tây hay các sắc tộc khác để ý. Việt kiều nam trông có vẻ bảnh bao nhưng thực trong lòng héo hon vì công ăn việc làm, nợ nần hay cô đơn.
Khả dĩ nhất là về Việt Nam lấy vợ qua mai mối, nhưng sau khi mang được vợ qua, những rắc rối mới lại bắt đầu. Những năm đầu, do không quen lắm và tiếng Anh chưa thạo, người vợ thường ở nhà, làm việc gia đình.
Khi vững hơn, họ bắt đầu tìm việc ở ngoài và lại là mục tiêu để ý của nam giới ở đây, bao gồm cả Việt kiều nam khác, và điều đó là khởi đầu những bi kịch đều cùng kịch bản.
Niềm vui sáng nhất của phần lớn Việt kiều có lẽ là thỉnh thoảng ngóng đợi ngày về Việt Nam chơi, sau một thời gian tích cóp.
Ở cái xứ sở mà từ đó họ đã ra đi, thực ra lại có mọi thứ và lại là nơi giữ mảnh hồn cuối cùng của họ. Lật đật ra đi, để rồi quay trở lại ngắm mình trong gương tự thấy đã già.
Lớp lớp những người khác, lại tiếp tục đến Canada, bằng mọi giá, bằng nhiều con đường, bỏ lại cả những gì tốt nhất để làm lại từ đầu, và sau nhiều năm những giấc mơ nhỏ dần lại, và thay vào đó là những nuối tiếc.
“Anh tưởng nước giếng sâu, anh nối sợi dây dài
Ai ngờ giếng cạn, phí hoài công anh nối sợi dây…”
(Ca dao Việt nam)
* Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả.
*Tiêu đề bài viết do tòa soạn đặt lại