Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hủy Quyết định Giám đốc thẩm vụ ly hôn giữa ông Đặng Lê Nguyên Vũ và bà Lê Hoàng Diệp Thảo.
Nữ miền Bắc
Ngày 13/1, theo nguồn tin của PV Dân trí, Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao vừa có văn bản kiến nghị về việc xem xét lại Quyết định Giám đốc thẩm số 01/2021/HNGĐ-GĐT ngày 11/3/2021 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao.
Theo đó, Viện trưởng Viện KSND Tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình giữa ông Đặng Lê Nguyên Vũ và bà Lê Hoàng Diệp Thảo theo hướng hủy Quyết định giám đốc thẩm số 01/2021/HNGĐ-GĐT; hủy Bản án hôn nhân và gia đình phúc thẩm số 39/2014/HNGĐ-PT ngày 5/12/2019 của TAND Cấp cao tại TPHCM và Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 291/2019/HNGĐ-ST ngày 27/3/2019 của TAND TPHCM về phần chia tài sản chung; giao hồ sơ cho TAND TPHCM xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
Chứng thư thẩm định giá hết hiệu lực
Tại bản kiến nghị được ký ngày 12/1/2022, Viện KSND Tối cao xét thấy, các Chứng thư và Báo cáo kết quả thẩm định giá của Công ty TNHH thẩm định giá Sài Gòn đối với 7 công ty của vợ chồng ông Đặng Lê Nguyên Vũ được phát hành trung tuần tháng 6/2018, đều có hiệu lực trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày ký phát hành. Đến ngày xét xử sơ thẩm 20/02/2019, Viện KSND Tối cao cho rằng, các Chứng thư và Báo cáo kết quả thẩm định giá này đều hết hiệu lực.
Ông Đặng Lê Nguyên Vũ (Ảnh: CTV).
Ngoài ra, báo cáo tài chính một số năm của một số công ty cụ thể cũng được Viện KSND Tối cao cho rằng chưa được kiểm toán.
Tại bản kiểm kê, đánh giá lại tài sản cố định vô hình kèm theo Chứng thư và Báo cáo kết quả thẩm định giá của các công ty nêu trên, Công ty TNHH thẩm định giá Sài Gòn chưa thẩm định giá trị quyền sở hữu trí tuệ (giá trị thương hiệu) của các công ty là thiếu sót. Tuy vậy, Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm vẫn sử dụng kết quả thẩm định giá trên để làm cơ sở chia tài sản chung của bà Thảo và ông Vũ - theo VKS - là không đúng.
Do các Chứng thư và Báo cáo kết quả thẩm định giá đã hết hiệu lực và nguyên đơn là bà Lê Hoàng Diệp Thảo không đồng ý kết quả thẩm định giá nên Tòa án cấp phúc thẩm phải tiến hành định giá lại tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 104 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Tuy nhiên, Tòa án cấp phúc thẩm không định giá lại mà sử dụng kết quả thẩm định giá tại cấp sơ thẩm để giải quyết vụ án.
Quyết định Giám đốc thẩm cho rằng, tại bản ý kiến của bà Thảo ngày 21/2/2019 và trong thời gian chuẩn bị xét xử phúc thẩm cũng như tại phiên tòa phúc thẩm, các đương sự không yêu cầu định giá lại nên Tòa án cấp phúc thẩm không định giá lại. Theo Viện KSND Tối cao, đây là nhận định không đúng với nội dung kháng cáo phúc thẩm và ý kiến của người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bà Thảo tại phiên tòa phúc thẩm.
Kiến nghị tăng tỷ lệ % tài sản cho bà Lê Hoàng Diệp Thảo
Cũng theo văn bản của Viện KSND Tối cao, bà Thảo là doanh nhân; quá trình giải quyết vụ án bà Thảo luôn có yêu cầu được chia (nhận) tài sản bằng hiện vật đối với cổ phần và phần vốn góp tại các công ty để tiếp tục thực hiện việc kinh doanh.
Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm không xem xét đánh giá toàn diện về số cổ phần, phần vốn góp và nhu cầu sử dụng của đương sự mà chia toàn bộ cổ phần, phần vốn góp cho ông Vũ, giao cho bà Thảo giá trị số cổ phần, phần vốn góp trong các công ty bằng tiền, theo VKS, là vi phạm quyền được kinh doanh của bà Thảo theo quy định của pháp luật.
Bà Lê Hoàng Diệp Thảo (Ảnh: CTV).
Các công ty, cổ phần và phần vốn góp trong các công ty đều có thể chia được bằng hiện vật. VKS cho rằng, không có tài liệu chứng minh cho việc nhận định "Nếu để bà Thảo tiếp tục là cổ đông cùng quản lý, điều hành các công ty của Tập đoàn Trung Nguyên sẽ dẫn đến những khó khăn cho sự tồn tại, ổn định và phát triển của Tập đoàn Trung Nguyên, ảnh hưởng đến sự ổn định, việc làm cho hàng ngàn công nhân đang hoạt động sản xuất tại các công ty của tập đoàn Trung Nguyên" như trong Quyết định Giám đốc thẩm.
Vẫn theo VKS, việc chấm dứt hoạt động kinh doanh bình thường của bà Thảo trong 7 công ty là không phù hợp với quy định về quyền tự do kinh doanh, quyền bình đẳng nam, nữ và nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng khi đưa vào kinh doanh.
Mặc dù các bên thừa nhận, trước khi ông Vũ kết hôn với bà Thảo, ông Vũ và một số người bạn đã kinh doanh cà phê. Tuy nhiên, thời gian kinh doanh được khoảng 2 năm thì ông Vũ kết hôn với bà Thảo. Sau khi kết hôn với bà Thảo, việc kinh doanh của ông Vũ bắt đầu có sự phát triển và hình thành Tập đoàn Trung Nguyên hiện nay.
Các công ty có tranh chấp đều được đăng ký doanh nghiệp lần đầu từ năm 2006 trở đi, sau rất nhiều năm kể từ khi ông Vũ, bà Thảo kết hôn (năm 1998). Bà Thảo đã nhiều năm tham gia điều hành hoạt động của Tập đoàn Trung Nguyên, nhất là thời gian ông Vũ không trực tiếp điều hành hoạt động của Tập đoàn.
VKS cho rằng, Tòa án hai cấp xem xét việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung của vợ chồng là cổ phần trong Tập đoàn Trung Nguyên chia cho bà Thảo ít hơn ông Vũ 20% giá trị tài sản tại ngân hàng, cổ phần, phần vốn góp trong Tập đoàn Trung Nguyên là không bảo đảm quyền lợi của bà Thảo (bà Thảo kém ông Vũ hơn 1.440 tỷ đồng).
Viện dẫn các điều luật, VKS cho rằng, việc Tòa án các cấp xác định ông Vũ đóng góp công sức nhiều hơn và chia cho ông Vũ được hưởng 60%, bà Thảo được hưởng 40% giá trị cổ phần và phần vốn góp trong các công ty, tài sản tại các ngân hàng là chưa phù hợp.
Bà Thảo là người làm vợ, làm mẹ trong gia đình, nuôi dạy các con trưởng thành, duy trì, giữ gìn hạnh phúc gia đình trong nhiều năm. Bên cạnh đó, bà Thảo đã trực tiếp kinh doanh, góp phần tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung của vợ chồng, góp phần vào sự ổn định và phát triển các doanh nghiệp thuộc Tập đoàn Trung Nguyên.
Trong việc mâu thuẫn dẫn đến ly hôn, Tòa án các cấp chưa xem xét đầy đủ trách nhiệm của ông Vũ trong việc thực hiện nghĩa vụ của người chồng theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Do đó, VKS cho rằng, cần tăng tỷ lệ % tài sản bà Thảo được chia trong khối tài sản chung nêu trên để bảo đảm công bằng quyền lợi cho bà Thảo.
Nguồn: Dantri